1. Phân tích tính kịch trong đoạn “Cải vội xòe 5 ngón tay... bằng hai mày”.
a. Cải lót tiền trước cho lí trưởng nên quan hệ giữa Cải và Lí trưởng là quan hệ đã được dàn xếp, đã được mua bán bằng đồng tiền. Cải yên tâm về mối quan hệ này, chắc chắn là mình sẽ được kiện. Thế nhưng khi lên công đường tình huống mới đột ngột xuất hiện. Lí trưởng tuyên bố đánh Cải chục roi. Đây là hành vi bất ngờ ngoài dự kiến của Cải, đặt ra nhiều phán đoán với nhân vật, với người đọc. Từ đó, dẫn đến xuất hiện một màn kịch ngắn. Hai nhân vật, một bên hết sức ngạc nhiên và cố xin xét lại, một bên thản nhiên kết án, một bên hoàn toàn bị động, một bên rất chủ động. Động tác và lời nói hai bên hoàn toàn trái ngược nhau. Động tác và lời nói cuối cùng của thầy lí kết thúc màn kịch, giải quyết tinh huống, mọi phán đoán đều đã có một kết luận chung. Quan hệ giữa Cải và thầy lí bị xóa bỏ bởi một quan hệ mới được dàn xếp tốt hơn đã thay thế. Đó là quan hệ giữa Ngô và thầy lí.
b. Trong màn kịch ngắn trên, “ngôn ngữ” giao tiếp của hai nhân vật là lời nói và hành động. Hai thứ ngôn ngữ này cùng kết hợp với nhau để đưa ra một nội dung cụ thể:
Hành động
Lời nói
Xòe năm ngón tay
Lẽ phải
Xòe năm ngón tay trái úp lên 5 ngón tay phải
Lẽ phải gấp đôi
Hành động
Lời nói
Xòe năm ngón tay
Lẽ phải
Xòe năm ngón tay trái úp lên 5 ngón tay phải
Lẽ phải gấp đôi
Hành động là để 2 người trong cuộc hiểu nhau. Còn ngôn ngữ thì công khai nói cho tất cả những người có mặt nghe. Hai thứ ngôn ngữ này phải kết hợp lại nhau mới tạo thành nội dung đối thoại đầy đủ, rõ ràng:
Lẽ phải được tính bằng 5 ngón tay, 2 lần lẽ phải là 10 ngón tay. Quay lại đối chiếu với phần đầu, người ta hiểu được tính chất quy ước ở đây: 5 ngón tay bằng 5 đồng, tức là ngón tay của Cải trở thành ký hiệu tiền tệ và hai bàn tay úp vào nhau của lý trưởng là ký hiệu cho lượng tiền đút lót của Ngô và Cải.
Tức là lẽ phải chính là tiền. Tiền là lẽ phải được đem ra để làm cán cân công lý. Tiền nhiều thì lẽ phải nhiều, tiền ít thì lẽ phải ít, bên nào nặng tiền hơn thì cán công lý nghiêng về phía đó. Đó chính là nội dung tố cáo của truyện.
Như vậy yếu tố kịch trong đoạn truyện được tạo nên qua lời nói và hành động của hai nhân vật Cải và Lí trưởng. Cái yên tâm được kiện, nhưng hành động xử kiện của lí trưởng hoàn toàn ngược lại với sự yên tâm của Cải và cách giải thích của quan tòa khiến Cải không kịp trở tay, rơi vào tình trạng bi hài: Vừa mất tiền vừa bị đánh.
2. Nghệ thuật gây cười qua lời nói của thầy lí ở cuối truyện.
Trong câu nói của lí trưởng có sử dụng hình thức chơi chữ, từ đó mà tạo nên tiếng cười. Từ “phải” ở đây là một từ đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất là chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, tức là từ chỉ tính chất. Nhưng khi từ này kết hợp với từ chỉ số lượng (bằng 2) thành cụm: “phải bằng 2”, thì nghĩa của nó lại là định lượng cho mức tiền lo lót của Cải và Ngô với lí trưởng. Bằng nghệ thuật chơi chữ như vậy, chỉ trong một lời thoại ngắn, tác giả đã đưa người đọc đi từ trạng thái “tưởng là thế này” (tưởng “phải” là lẽ phải) đến “hóa ra thế kia” (hóa ra “phải” ở đây lại là mức tiền) trong tích tắc. Lời nói của lí trưởng vừa có cái vô lí, vừa có hợp lí. Vô lí khi đặt nó trong một phiên tòa bình thường, hợp lí khi ta đặt nó vào mối quan hệ thực tế giữa các nhân vật. Ở đây lí trưởng nói bằng mối quan hệ thực tế đó, tức là cái hợp lí đã thay thế cho cái vô lí. Từ đó người đọc mới bất ngờ vỡ lẽ về bản chất: tư lợi từ việc công một cách hồn nhiên và trắng trợn của lí trưởng. Một nền công lí được thực thi như thế, do những con người như thế nắm giữ. Thật là nực cười. Tiếng cười được bật ra khi quá trình nhận thức kết thúc.
3. Đánh giá về nhân vật Ngô và Cải.
Hai nhân vật là hình ảnh dại diện cho những người nông dân ghê gớm, ma lanh nội bộ nhưng lại khờ khạo, bị bóp nặn bởi bọn cai trị. Họ vừa là đồng phạm, vừa là nạn nhân của tình trạng tham nhũng của đám hào lí nông thôn, họ vừa đáng thương, lại vừa đáng trách. Chính họ đã góp phần tạo nên và thúc đẩy thói nhũng nhiễu kia, rồi lại tự đẩy mình vào tình cảnh thảm hại, bi hài.
Copyright © 2021 HOCTAP247